Thông báo

Collapse
No announcement yet.

CHỨNG NHÂN MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ - Tinh Hoài Hương

Collapse
X

CHỨNG NHÂN MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ - Tinh Hoài Hương

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • CHỨNG NHÂN MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ - Tinh Hoài Hương

    CHỨNG NHÂN MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ


    Nhân đến ngày giỗ 2/11 của vị Tổng Thống VNCH, và bào đệ Ngô Đình Nhu, tôi xin mạn phép chia sẻ bài viết: qua ít dữ kiện và sự kiện về cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

    (Bài viết cách đây 41 năm, cần ghi lại mọi diễn biến liên tiếp nên hơi dài, xin thứ lỗi).


    Cảm ơn Ban Quản Trị HQPD. Cảm ơn quý anh chị ghé đọc bài viết.

    Kính chúc Ban Quản Trị, thành viên và gia đình dồi dào sức khỏe, bình yên, vui tươi, tâm thân an lạc nhé.

    Quý mến.

    Hoài Hương

    *


    CHỨNG NHÂN MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ

    Tình Hoài Hương
    *

    Sau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam như chiếc ghế cũ chỉ còn ba chân lắc lư gập ghềnh càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”.

    Thụy Mi nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng của những tay mưu đồ chính trị chuyên nghiệp, họ đã giật dây ngầm tạo ra sự vô tổ chức về những đợt sóng bạo loạn. Có tình trạng những kẻ "trẻ người non dạ rất hỗn” lợi dụng thời cơ, vênh váo thừa nước đục thả câu.

    Điều nầy sẽ rất nguy hiểm khi họ có quyền lực trong tay mà không biết ôn nhu, khoan hòa, khiêm tốn, khôn ngoan. Nhứt là phải có tri thức và trung dung. Nói chung, tình hình chính phủ lúc đó quả thật là một xã hội rối rắm, như mớ bòng bong trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái, mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh của cách mạng, bạo lực hỗn độn đó lên nắm chính quyền điều hành.

    Dạo ấy, các bạn sinh viên năm thứ hai Sư Phạm, Văn Khoa, cùng Thụy Mi còn rất trẻ, nhưng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó, dựa vô vài dữ kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra về sự kiện lịch sử: cay đắng đến xót xa chua chát bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý tưởng cao trọng trong “công cuộc lãnh đạo kháng chiến”, mà cô chẳng thể tín trung vô lề lối đấu tranh trung dũng.

    Bạn hữu cô cảm thấy “sự cách mạng” lạt lẽo, mù mờ, vô bổ, “kháng chiến - khiến chán” từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Thụy Mi. Cô muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi, bình lặng trong đời sống, quyết giữ tinh thần ôn hòa, trung dung trong sáng, không bè phái, không thiên vị, tìm một cuộc sống vô tư lự, thanh thản hữu hiệu thật sự đáng sống; để mình có thể góp phần nhỏ giúp ích với đời, một cuộc đời thực sự bình dị, mến thương nhau, hòa ái an lành có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù, không vướng mắc mọi ưu tư ray rứt dày vò ở trong lòng.

    Do một tuần lễ công tác trong tổng hội sinh viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho mấy anh và Mi & Lan, Vân... bao điều băn khoăn nghẹn ngào xót xa quá cay đắng. Vì, khi làm việc với nhau trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên là cư dân Huế, (anh ấy rất quý mến các bạn từ Sài Gòn, Đà Lạt... đến Huế), anh ta ngầm ngầm báo với họ:

    - Hãy hết sức cẩn thận đề phòng: Tính mạng của mấy anh chị hiện nay đang nằm gọn trong tay “họ” đó nghe.


    Thú thật, bạn hữu trong nhóm Thụy Mi không hiểu nổi, mình đi làm thiện nguyện không tiền lương, là bổ ích cho đời, vậy tốt, thì đã có gì sai? Khi anh ta nhấn mạnh ở điểm nầy, thì họ chẳng thể biết ra sao, không thể hình dung chữ “họ” ở đây, là anh ta muốn ám chỉ về ai? Ai?

    Bởi vậy, mấy ngày các bạn ghi tên ở khách sạn, nhưng khi đêm về thì cả nhóm cùng nhau lo đi ẩn nấp, chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột, ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya họ lại đem ghe neo đi chỗ khác, lúc chèo ghe lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân...

    Thụy Mi rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ, cô quá chán ngán, không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vô đời sống sinh viên quấy rối mình nữa! Cô cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền địa phương.

    Đó là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ của VNCH vừa mới sơ sinh, mà nay đã manh nha nhiều thủ đoạn gian tà “rối” như thế nầy, thì tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm Ba mươi Tết mà thôi.

    Thật ra đám sinh viên thiện nguyện đi Huế công tác bây chừ cảm thấy buồn bã, băn khoăn chán nản đến tột đỉnh. Có thể nhận thức của họ về vài vấn đề nào đó còn eo hẹp, khiếm khuyết, nông cạn, không hữu hiệu, phiến diện và ít sắc bén trong suy nghĩ, nên họ không thể đạt được sự cảm thông và khuyến khích với “những vị có hào quang chói lọi trên đài danh vọng khi đi làm cách mạng kháng chiến cứu... bồ" chăng?

    Theo thiển ý của Thụy Mi: nếu tham gia làm cách mạng vì người ta thật sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, nâng đất nước lên tự do hưng thịnh vinh sang và trường tồn, thì ta không nên chìm đắm bới móc quá khứ, mà khư khư ôm hận thù.

    Điều cần thiết và cấp bách muốn thực thi cách mạng, trước tiên ta cần phải an-nội. Thế nhưng giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đi đâu? đến đâu? về đâu?

    Khi Thụy Mi nghe: Albert Einstein (1879-1955) đã nói: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don't do anything about it”. (Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lì, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy).

    Hoặc giả như Napoléon Bonaparte (1769-1821) đã trầm ngâm suy tư: “Le monde souffre énormément, non pas à cause de la violence des gens malsains mais à cause du silence des gens braves”. (Thế giới chìm đắm trong đau khổ, không phải chỉ vì bạo lực của bọn ác, mà còn vì sự im lặng của người tử tế).

    * * *

    Thế thì ta có nên cúi đầu lanh lẹ quay gót, lo thụt lùi lui xa khu chính trường, không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn… hay không nhỉ? Bởi, Mi còn nhớ rất rõ:


    Buổi chiều hôm đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay trên lưng trời, có nắng nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật bình thường như bao buổi chiều trước. Có khác chăng là một tí nữa đây Thụy Mi và mấy anh bạn sẽ trở thành số ít người hiếm hoi, sẽ tận mắt chứng kiến sự việc đặc biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại liên hệ đến lịch sử Việt Nam.


    Đó là một buổi chiều định mệnh vô cùng đớn đau bi thảm, ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone tới nhà Hoàng. Trong nhà có thêm bạn: Trung, Thạch, Thụy Mi, Lan, Dung ngồi gần bàn làm việc. Hoàng bắt phone và chuyển cho Ba, (chủ trại hòm Tobia).

    Sau một hồi lâu trao đổi, giọng Ba trở nên lo lắng, bối rối bồn chồn, như có điều gì bức bách buồn khổ lắm. Cuối cùng Ba thở dài, buông phone và cây viết Bic xuống quyển sổ dày. Ba e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ ngập ngừng nói nhỏ:

    - Tổng thống và ông Cố vấn đã chết lúc 11 giờ 15 phút. Họ đọc giấy chứng tử hai ông cho Ba nghe, do Đại-úy y sĩ trưởng bệnh xá hành dinh Tổng tham mưu khám nghiệm và thành lập hồ sơ. Hai ông đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lịnh của Dương văn Minh. Sát thủ là Nguyễn văn Nhung, đã giết hại hai ngài.

    Sửng sốt, bàng hoàng, mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Tất cả túc trực trong phòng khách, vội mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh, đã thành công.

    Ông Minh tuyên bố: - “Tôi tạm thời lãnh đạo quốc gia”.


    Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hòa tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc tẩu thoát đâu đó”.

    Chẳng nói chẳng rằng, Ba vội vã sai Hoàng đi gọi đạo tỳ tới xưởng hòm chuẩn bị hậu sự cho Tổng thống Diệm và ông Cố vấn Nhu.


    Ở nhà kho có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền, nhưng không mấy xuất sắc. Có một cái hòm tốt nhứt bằng gỗ giá tỵ rất quý hiếm, bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh của quân đội Mỹ rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp, bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp nhung mỏng, êm ái. Phía trên hòm có nắp kính, dễ dàng mở nắp ra đóng lại, lộ mặt và nửa thân hình người quá cố. Hòm có chốt cài bên hông.


    Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như vậy. Chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ quý hiếm nầy lẽ ra sẽ đựng thi hài của một viên sĩ quan cấp tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu tại sao họ lại vất bỏ nó ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhứt?


    Tình cờ Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên Ba nài nỉ, thương lượng với viên quản lý nhà xác, mua lại đem về trưng bày trong tiệm của mình để coi chơi. Ai tới tiệm mua giá cao cỡ nào ông cũng không bán. Thế là Ba quyết định:

    - Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.


    Hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, trong nhà họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lịnh. Gần 4 giờ chiều, phone của ông Trần Trung Dung gọi:

    - Ông vui lòng đem khuôn hòm tới nhà xác bệnh viện Saint Paul đường Tú Xương. Tuyệt đối không được có đông người đi theo. Xe chỉ chở mỗi lần một cái hòm thôi.

    Ba anh nêu ý kiến:

    - Có nên lấy thêm một xe nữa đi theo xa xa xe kia không?

    - Không. Chở từng hòm một, cách xa nhau nửa giờ. Đem cái “đầu tiên” đi trước. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi, (ý họ muốn nói đến khuôn hòm của Tổng Thống Diệm, sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có Má, (chủ tiệm Tobia), Hoàng, Mi, Thạch, Trung, Lan, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vô đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc giờ giới nghiêm thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Mi mới thấy cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vô nhà xác.


    Ngoài mấy người kể trên ra, còn có hai soeur ở nhà thương nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của Tổng thống lăm le chiếc máy hình trong tay. Khi xe tang vô tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ sợ sệt, lén lút như người làm chuyện mờ ám gì, chẳng biết. Hình như soeur có lịnh trước, soeur vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù leo lét treo tòn ten trên trần.


    Bốn đạo tỳ đem quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng một giờ thì có một chiếc xe Hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh màu cứt ngựa thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra.

    Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy, một người nằm trên băng ca cũng lắc lư theo nhịp bước mau. Họ đưa băng ca vô hẳn phía trong đặt xuống dưới đất. Chẳng buồn dòm ngó ai hay nói câu nào, họ lo cúi đầu vội vã quay trở ra, nhảy tọt vô xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy lao vút đi trong sự im lặng hãi hùng.

    Lúc bấy giờ cả nhóm liền bước tới đứng sát bên người nằm trên đó là vị kính mến của nền Đệ Nhứt Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc vớ trắng. Cả bộ сom-lê chìm trong màu máu. Trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên, im lặng, dường như chìm trong giấc ngủ bình an không muộn phiền, chẳng uất hận khổ đau…


    Ánh sáng vụt lóe lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm hình. Chẳng hiểu lúng túng, run rẩy, sợ hãi lo lắng hay sao, mà ông vội cất giấu máy hình, không chụp thêm, mà lại ngưng? Hay thấy cảnh máu me thật hãi hùng và đau lòng, nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi!


    Đạo tỳ khiêng xác ngài lên đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Má nói với mọi người và hai soeur:

    - Nhờ mấy cháu lấy bông gòn, compresse nhúng đầy an côn lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, cẩn thận các vết máu cho Tổng Thống giúp tôi với. Cảm ơn lắm.


    Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần chu đáo sửa sang áo quần Tổng Thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẩn liệm Ngài đàng hoàng. Má lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vô tay Tổng Thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay Ngài nhẹ nhàng khép lại dễ dàng để giữ xâu chuỗi, như Ngài đang lim dim đọc kinh lần hột.


    Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp. Thở hụt hơi. Nghẹn ngào. Ngậm ngùi cay đắng bẽ bàng xao động. Đau xót thương tiếc cho kiếp phù sinh bạc mệnh ngắn ngủi!


    Chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe Hồng thập tự lúc nãy đã trờ tới nhà xác, cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vô, bà soeur vội vàng khép mau cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô Đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu, áo bỏ trong quần màu nâu xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu nghiêm nghị rắn đanh, có vẻ như bất bình điều gì, vầng trán cao cau lại với nhiều nếp nhăn, đôi môi ông mím chặt. Không ai thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông Nhu nằm hơi nghiêng qua một bên, ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên qua bên kia.


    Công việc tẩn liệm cũng tuần tự diễn ra cẩn thận như lần trước. Không khí lúc nầy quả thật quá đỗi nặng nề bi thương! Im lặng hoàn toàn, hình như ai ai cũng thở rất nhẹ, họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc mà họ đã kềm sâu trong tim, để khóc thương cho kiếp phù sinh: khi hai vị ấy vừa đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư xót xa, đau đớn và bạc bẽo!


    Hoặc những người chứng kiến cảnh đau lòng kia sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm, nơi con người thực sự đã bước chân tới cõi hư vô nghìn trùng xa xăm? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, chia xa bởi một bức màn vô hình và mong manh như sương khói.


    Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay qua biên giới vô hình bên kia, càng không thể biết thêm gì nhau hơn! Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy đã bất động như ảo ảnh hư vô, mà vô cùng thực tế và quá đỗi thương tâm.


    Chúng tôi sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương áo não ấy trong trí óc. Vì rất thật, quá thật tình cờ, vô tình Thụy Mi đã là chứng nhân một sự kiện lịch sử của thế kỷ. Ý thức nhận ra rõ ràng: cuộc sống sao quá mỏng manh như bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời xám bạc, như cành cây oằn thân trong bão tố khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!

    Thụy Mi cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nỗi đau trong cổ. Cô vội kéo Hoàng, Thạch, Trung, Liên bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, để cho dễ thở và thoáng hơn.

    Ngay lúc đó, Mi thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay vung cao, hò hét: "Đả đảo chế độ gia đình trị họ Ngô!” Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ trưởng bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng ủy trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).

    Họ lao vô nhà ông Lương đập phá, hôi của, tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi”, biến sạch hết. Thậm chí cô thấy có mấy người bồng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh, như muốn tìm chủ.

    Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh sát Dã chiến tới nơi can ngăn kịp thời. Ôi! "cuộc cách mạng" phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ, và những tháng năm sau nầy phán xét.

    Nghe tiếng Má gọi, các anh, chị vội chạy trở về nhà xác, hai chiếc xe cứu thương hồng thập tự tới lấy quan tài anh em tổng thống, họ nói với tài xế: “vô Bộ Tổng Tham Mưu”.


    (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển xác anh em Tổng thống vô Bộ Tổng Tham Mưu. Sự vụ lệnh văn thư số 836 TTM/vp, ngày 7-11-63, do ông Trần Trung Dung khẩn thiết xin được chôn cất hai Ngài, thì ngày 8/11/63 Bộ Tổng Tham Mưu có triệu tập buổi họp nầy.

    Hiện diện việc chôn cất có: Trưởng ban nghi lễ Bộ TTM: Trung-tá Lê Văn Soạn. Đại đội I mai táng: Đại-úy Đỗ Văn Giương. Trưởng ban An Ninh quân đội của Bộ TTM đại diện Nha An-ninh Quân-đội VNCH: Trần Ngọc Giang. Tiểu đội trưởng Hiến binh Tân Bình: Trung sĩ Hiến-binh Nguyễn Tân Phương.


    Trung-tá Lương dẫn ban kiểm soát mai táng đi quan sát lại hai quan tài, chỉ định nơi an táng là khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa Hùng Quốc Tự, gần mộ phần ông Lê Văn Phong (triều thần đời Nguyễn, bào đệ của đức Tả quân Lê Văn Duyệt). Hiện diện lúc bấy giờ có linh mục người Pháp Claude Claire đại diện Tòa Khâm Mạng Sài Gòn chủ lễ, ông bà Trần Trung Dung, Ủy ban kiểm soát, cùng một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu.

    ***

    Tiếp theo sau đó còn có mấy cuộc đảo chánh, chỉnh lý nữa. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:

    - Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”, cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn, phải cho dời đi ngay.

    Thế là bên phòng cải táng cho mời ông chủ Tobia tới, họ nhờ Ba Hoàng làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng có chiều cao 1m30, ngang 1m20, dài 2m50. Ba lại cho đạo tỳ đi lên Bộ Tổng Tham Mưu. Họ lén lút, hì hục đào mộ anh em cố tổng thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu không ngưng nghỉ từ chạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ba đem hai thi thể về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Khu lăng mộ Mạc Đĩnh Chi được bao bọc bởi bốn bức tường gạch quét vôi vàng cao khoảng 2.5 mét, rộng khoảng 7.5 hecta.


    Ba có lịnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy, chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Tuyệt đối không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác.

    Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy đã nằm đó, dân sẽ tới cầu nguyện và ngưỡng mộ (?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành! Không biết do đâu “rò rỉ" ra nguồn tin:

    - Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy là mộ phần của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

    Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vô thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, họ đi tới cổng chính đến đoạn giữa hai ngôi mộ "Anh Em” nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, tráng lệ nhìn qua mộ phần hai anh em: "Gioan Baotixita Huynh, Giacobe Đệ”.


    Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia, thì trên hai ngôi mộ đơn sơ khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang nghi ngút khói, có bó bông tươi màu thay đổi, có bốn ngọn đèn sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như vì sự sợ hãi, người dân chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Những người dân hiền lương ẩn danh như thầm nói:

    - Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Nhu. Xin các Ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng chỉ là đổi mới những sự kiện, những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị thanh thản ra đi, phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam.


    Xin Quý Ngài phù hộ cho dân mình được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự như Quý Ngài hằng đợi mong. Xin Quý Ngài hãy lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người trắng trợn phản trắc, xin hãy tha thứ cho những kẻ bạc ác đã tàn nhẫn hại mình.

    ***

    Kiếp người phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Thụy Mi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối buông tiếng thở dài, ngậm ngùi sâu lắng trên mỗi phím loan.


    Nhưng chúng sợ dân Sài Gòn chống đối nên chúng lập kế hoạch chuẩn bị rồi sai người đập tan hết cái nghĩa trang ngay trong một đêm, sáng ra là mọi việc đã rồi ... Gia đình của Tổng Thống đã phải dời mộ, cải táng hai cụ về quê.

    Mấy mươi năm sau Ủy ban thành phố ra thông báo di chuyển nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi ra khỏi khu vực nầy, kể từ ngày 29.4.1983 hạng cuối cùng phải hoàn tất là ngày 30.8.1983.


    Hài cốt của "Gioan Baotixita Huynh - Giacobe Đệ" đã được thân nhân đào lên lần thứ ba, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại nghĩa-trang số 6, Lái Thiêu, Bình Hòa, Thuận An, tỉnh Bình Dương.


    Lần nầy, Thụy Mi chắp đôi tay tha thiết cầu xin Thiên Chúa cho quý Ngài thật sự bình an, xin cho họ được yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam. Xin cho di cốt người quá cố đừng bị đào bới lên thêm lần nào nữa! Đã quá đủ rã rời chua xót, cay đắng thảm thương bi đát lắm rồi!
    ***
    Tình Hoài Hương


    Hình mượn trên internet

    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X